1. Sự thành lập Đảng bộ tỉnh Gia Lai (trước sáp nhập)
Ngày 03/02/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đánh dấu một sự kiện lịch sử trọng đại, mở ra bước ngoặt căn bản trong vận mệnh dân tộc. Sự kiện này không chỉ khai sinh một chính Đảng cách mạng, khoa học và tiên phong, đủ sức lãnh đạo Nhân dân đấu tranh giành độc lập, tự do, mà còn đặt nền móng cho quá trình hình thành và phát triển hệ thống tổ chức Đảng trên phạm vi cả nước, trong đó có các tổ chức Đảng ở tỉnh Gia Lai (trước sáp nhập).
Từ ánh sáng của Cương lĩnh đầu tiên và đường lối cách mạng do Đảng lãnh đạo, phong trào yêu nước ở Gia Lai (trước sáp nhập) từng bước phát triển cả về tư tưởng, tổ chức và lực lượng. Các chiến sĩ cộng sản và cán bộ cách mạng được Xứ ủy Trung Kỳ cử lên hoạt động đã bí mật gây dựng cơ sở trong đồn điền, vùng dân tộc thiểu số; đồng thời vận động thanh niên, trí thức, viên chức yêu nước tham gia các tổ chức quần chúng, phong trào ủng hộ cách mạng; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giác ngộ lý tưởng cách mạng, vận động thanh niên tham gia các phong trào đấu tranh ủng hộ Việt Minh và phong trào giải phóng dân tộc.
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, Xứ ủy Trung Kỳ đã cử đồng chí Phan Thêm làm phái viên Xứ ủy và Mặt trận Việt Minh Trung Bộ lên Gia Lai (trước sáp nhập) để chỉ đạo gây dựng phong trào, phát triển cán bộ, đảng viên. Sau thời gian tích cực hoạt động, ngày 01/10/1945, Chi bộ Cộng sản đầu tiên của tỉnh Gia Lai (trước sáp nhập) được thành lập tại Trường tiểu học Việt - Pháp (56 Trần Hưng Đạo, phường Pleiku hiện nay) gồm 09 đảng viên do đồng chí Nguyễn Đường làm Bí thư Chi bộ. Ngày 25/11/1945, Chi bộ Đảng ở An Khê được thành lập, gồm có 03 đảng viên.
Tiếp đó, lần lượt các chi bộ Đảng ở Biển Hồ, Bàu Cạn và trong lực lượng vũ trang của tỉnh (Chi bộ Chi đội Tây Sơn) lần lượt ra đời, nâng tổng số đảng viên toàn tỉnh lên 24 đồng chí. Trước yêu cầu cấp thiết đòi hỏi phải thống nhất có sự lãnh đạo của Đảng, ngày 10/12/1945, Đảng bộ Đảng Cộng sản Đông Dương tỉnh Gia Lai (trước sáp nhập) được thành lập, lấy tên là Đảng bộ Tây Sơn. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh lâm thời gồm 5 đồng chí, do đồng chí Phan Thêm - Phái viên Xứ ủy Trung Kỳ làm Bí thư, các đồng chí Nguyễn Đường, Nguyễn Xuân, Trần Ren, Phạm Thuần làm ủy viên. Sự ra đời của Đảng bộ tỉnh Gia Lai (trước sáp nhập) là dấu mốc lịch sử đặc biệt quan trọng, đánh dấu bước trưởng thành của phong trào cách mạng ở địa phương. Từ những phong trào yêu nước còn manh nha, tự phát, Nhân dân các dân tộc trong tỉnh đã có tổ chức Đảng lãnh đạo trực tiếp, thống nhất, được soi đường bởi đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự kiện này mở ra trang sử mới, khẳng định bản lĩnh và ý chí quật cường của Nhân dân các dân tộc tỉnh Gia Lai; đồng thời tạo nền tảng vững chắc để đoàn kết, tập hợp sức mạnh toàn dân trong đấu tranh giành độc lập, xây dựng chính quyền cách mạng, tiến hành hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc sau này. Ý nghĩa của sự ra đời Đảng bộ không chỉ đối với tỉnh Gia Lai (trước sáp nhập) mà còn đóng góp quan trọng vào phong trào cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX.
2. Thành tựu 80 năm xây dựng và phát triển của Đảng bộ tỉnh Gia Lai (trước sáp nhập)
Ngay sau khi ra đời, Đảng bộ tỉnh đã nhanh chóng phát huy mạnh mẽ tinh thần cách mạng của Nhân dân các dân tộc trong tỉnh, lãnh đạo việc xây dựng và củng cố chính quyền cách mạng non trẻ; tổ chức, vận động Nhân dân tham gia tích cực các phong trào do Mặt trận Việt Minh phát động như: Tiêu thổ kháng chiến, quyên góp xây dựng quỹ độc lập, quỹ kháng chiến, quỹ cứu trợ thông qua các phong trào “Tuần lễ vàng”, “Tuần lễ đồng”; đồng thời đẩy mạnh tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng và Chính phủ Việt Minh. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, nhiều làng chiến đấu và căn cứ du kích vững chắc được hình thành như Stơr, Gào…,tạo thành hệ thống căn cứ địa quan trọng bảo vệ lực lượng cách mạng.
Trong 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, quân và Nhân dân các dân tộc tỉnh Gia Lai (trước sáp nhập) đã lập nhiều chiến công xuất sắc, tiêu biểu là Chiến thắng Đak Pơ, đánh tan Binh đoàn Cơ động 100 của thực dân Pháp đang trên đường rút lui từ An Khê về Pleiku. Chiến công này góp phần quan trọng cùng quân và dân cả nước làm nên thắng lợi Điện Biên Phủ “Lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, buộc thực dân Pháp ký Hiệp định Giơnevơ lập lại hòa bình ở Việt Nam và Đông Dương.
Trong 21 năm kháng chiến chống đế quốc Mỹ, cùng với toàn Đảng, toàn quân và Nhân dân cả nước, quân và dân Gia Lai đã chiến đấu với ý chí sắt đá: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”,“Tất cả vì miền Nam ruột thịt”. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, lớp lớp con em trong tỉnh hăng hái lên đường nhập ngũ, chiến đấu dũng cảm và lập nhiều chiến công trên khắp chiến trường. Các phong trào “Tòng quân giết giặc”, “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, “Góp lương nuôi bộ đội”, “Đánh địch bằng hầm chông, bẫy đá”… lan rộng, thể hiện tinh thần hy sinh vì nền độc lập tự do của Tổ quốc, của dân tộc. Nhiều người con ưu tú của tỉnh đã trở thành Anh hùng lực lượng vũ trang như: Đinh Núp, A Sanh, Kpă Klơng, Rơchơm Ớt… Và các chiến công hiển hách của quân và dân các dân tộc Gia Lai đã đi vào lịch sử đấu tranh cách mạng của dân tộc như một huyền thoại, tiêu biểu như: Chiến thắng Plei Me, Chiến thắng đường 7 - Sông Bờ; cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968; Chiến dịch Xuân - Hè 1972... đã góp phần đánh bại các chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, “Chiến tranh cục bộ”, “Việt Nam hóa chiến tranh” của đế quốc Mỹ và với Chiến dịch Tây Nguyên mở màn cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 đã góp phần giải phóng tỉnh Gia Lai vào ngày 17/3/1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước ngày 30/4/1975.
Sau ngày đất nước thống nhất, hai tỉnh Gia Lai và Kon Tum sáp nhập thành tỉnh Gia Lai - Kon Tum. Phát huy truyền thống cách mạng, Đảng bộ tỉnh Gia Lai - Kon Tum đã lãnh đạo Nhân dân các dân tộc trong tỉnh bắt tay vào xây dựng cuộc sống mới, khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục, phát triển kinh tế - văn hóa - xã 3 hội, ổn định đời sống Nhân dân, trấn áp kịp thời bọn phản động FULRO và các tổ chức, đảng phái phản động khác, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tích cực tham gia và hoàn thành nghĩa vụ quốc tế cao cả. Đến năm 1984, Gia Lai - Kon Tum đã vượt qua khó khăn, vươn lên đạt những thành tích mới trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội. Tổng sản phẩm xã hội tăng 1,39 lần, thu nhập quốc dân tăng 1,45 lần so với năm 1976. Bước vào thời kỳ đầu đổi mới, Đảng bộ tỉnh đã chủ động nắm bắt thời cơ, vận dụng kịp thời và sáng tạo các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; đồng thời ban hành nhiều giải pháp phù hợp với thực tiễn địa phương, thúc đẩy đổi mới tư duy, nhất là tư duy phát triển kinh tế. Những nỗ lực đó đã góp phần giúp tỉnh cùng cả nước vượt qua khủng hoảng kinh tế - xã hội, giữ vững quốc phòng, an ninh và tạo nền tảng quan trọng cho sự phát triển của tỉnh trong những giai đoạn tiếp theo.
Năm 1991, trước yêu cầu của sự phát triển, Gia Lai - Kon Tum được chia tách thành 2 tỉnh: Gia Lai và Kon Tum. Khi mới tái lập, Gia Lai vẫn là một tỉnh nghèo, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội thấp, đời sống Nhân dân còn nhiều khó khăn. Trước tình hình đó, Đảng bộ tỉnh Gia Lai (trước sáp nhập) tập trung đề ra các giải pháp tháo gỡ khó khăn, phát huy lợi thế, huy động nội lực, thu hút đầu tư, tranh thủ sự giúp đỡ của Trung ương, sự hỗ trợ của các tỉnh, thành phố trong cả nước, nhất là sự chung sức, đồng lòng của các tầng lớp nhân dân trong xây dựng và phát triển. Do đó, trong gần 35 năm sau ngày tái lập, nền kinh tế - xã hội tỉnh Gia Lai đã có sự thay đổi cơ bản và toàn diện. Tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm phát triển (giai đoạn 1991 - 2010 bình quân hàng năm tăng trên 11%; giai đoạn 2010 - 2015 bình quân tăng 12,81%; giai đoạn 2015 - 2020 đạt 7,83%; giai đoạn 2020 - 2025 tăng 6,36%). Nếu như những năm đầu giải phóng, Gia Lai là một tỉnh thường xuyên thuộc diện cứu đói thì đến nay, đời sống của Nhân dân ngày càng được nâng lên, đã xóa được hộ đói, tỷ lệ hộ nghèo theo tiêu chí mới giảm còn 6,06% vào cuối năm 2024; trong đó, tỷ lệ hộ nghèo là đồng bào dân tộc thiểu số giảm từ 25,58% năm 2021 xuống còn 12,66% vào cuối năm 2024. Công tác dân tộc và chính sách dân tộc được triển khai đồng bộ. Đoàn kết giữa các dân tộc tiếp tục được củng cố, góp phần ngăn chặn các hoạt động lợi dụng vấn đề dân tộc để phá hoại khối đại đoàn kết, gây mất ổn định chính trị - xã hội. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh ngày càng chú trọng. Đảng bộ tỉnh quan tâm lãnh đạo thực hiện có hiệu quả hai nhiệm vụ chiến lược “Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”, không ngừng củng cố quốc phòng - an ninh, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, nhất là “thế trận lòng dân” vững chắc, xây dựng lực lượng vũ trang địa phương vững mạnh toàn diện, từng bước chính quy, hiện đại. Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân các dân tộc trong tỉnh đã tiếp tục củng cố; tăng cường hợp tác trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội với các tỉnh Đông Bắc Campuchia, Nam Lào.
Với những thành tích đạt được qua các thời kỳ cách mạng, Đảng bộ, chính quyền, quân và Nhân dân các dân tộc trong tỉnh Gia Lai (trước sáp nhập) đã được Đảng, Nhà nước, Chính phủ tặng nhiều phần thưởng cao quý: Danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Huân chương Sao vàng, 4 Huân chương Hồ Chí Minh, 168 Huân chương Độc lập các hạng, 490 Huân chương Lao động các hạng; 57 tập thể, 18 cá nhân được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân; 4 1 tập thể, 1 cá nhân được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động, 123 mẹ được phong tặng danh hiệu Mẹ Việt Nam Anh hùng; 17 tập thể được tặng thưởng Huân chương Thành đồng; trên 20.000 cá nhân được tặng thưởng Huân chương Quyết thắng, Huân chương
English 





